10 Vị đệ tử của Đức Phật

Kết quả 5.0/5 (1 đánh giá)

Đức Phật Thích Ca, từ khi thành đạo cho đến khi nhập Niết bàn đã thu nhận rất nhiều đệ tử. Không chỉ là người xuất gia, Ngài còn thu nhận cả những người tu hành tại gia. Trong đó có tới 1250 vị đệ tử xuất sắc nhất, đắc thánh quả A La Hán. Thế nhưng chỉ có 10 đại đệ tử của Đức Phật (Thập Đại Đệ Tử) là có sở chứng, đạo hành thâm sâu, được liệt vào hàng đệ nhất.

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-1 

Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật, cụ thể như sau:

  1. Tôn giả Xá Lợi Phất, trí tuệ siêu việt nhất
  2. Tôn giả Mục Kiền Liên, thần thông quảng đại nhất
  3. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, tu khổ hạnh mẫu mực nhất (đầu đà đệ nhất)
  4. Tôn giả A Nâu Đà La, mắt trời thấy suốt, thiên nhãn đệ nhất
  5. Tôn giả Tu Bồ Đề, thể nhập diệu lý “không” đệ nhất
  6. Tôn giả Phú Lâu Na, giảng sư thuyết pháp tài giỏi nhất
  7. Tôn giả Ca Chiên Diên, luận sư lỗi lạc nhất
  8. Tôn giả Ưu Ba Li, mô phạm, uy tín và trì giới nhất
  9. Tôn giả A Nan, nghe nhiều, nhớ kỹ và đa văn nhất
  10. Tôn giả La Hầu La, oai nghi, tế hạnh nhất

Tôn giả Xá Lợi Phất, trí tuệ siêu việt nhất

Tôn giả Xá Lợi Phất được xem là trưởng tử của Đức Phật, là chấp pháp tướng quân. Thường nhận nhiệm vụ giảng dạy đồ chúng thay cho đức Phật và hướng dẫn cho nhiều vị đắc quả A La Hán. Ngài được Đức Phật ban cho danh hiệu Trí huệ đệ nhất. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-2 

Chân dung Tôn giả Xá Lợi Phất

Trước khi xuất gia theo Phật, Xá Lợi Phất là một vị luận sư có tiếng. Ngài có trí thông minh xuất chúng trong tăng đoàn Bà La Môn. Xuất thân trong gia đình giàu có, danh giá tại Upatissa, Ngài Xá Lợi Phất từ nhỏ đã thông minh hơn người, học một hiểu mười nên rất được người đời coi trọng. 

Với trí huệ xuất chúng, Ngài đắc thánh quả A La Hán chỉ sau 4 tuần gia nhập Tăng đoàn của Đức Phật. Ngài Xá Lợi Phất cùng Ngài Mục Kiền Liên là bạn thân của nhau, cả hai đều là những đệ tử được Đức Phật yêu mến.

Tôn giả Mục Kiền Liên, thần thông quảng đại nhất

Tôn giả Mục Kiền Liên sinh ra trong một gia đình thuộc dòng Bà La Môn danh tiếng thời bấy giờ. Ngài theo Tôn giả Xá Lợi Phất quy y Phật và sau 7 ngày thì đắc quả A La Hán. Đặc biệt, Ngài đắc quả khi đang ngồi nhập định một mình trong rừng dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đức Phật trong Định. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-3 

Chân dung Tôn giả Mục Kiền Liên

Tôn giả Mục Kiền Liên được Đức Phật khen ngợi về sự xuất chúng, được công nhận là Thần thông bậc nhất. Ngài đã nhiều lần thi triển thần thông như một phương tiện để giáo hóa cũng như cứu độ chúng sinh. Trong Tăng đoàn của Đức Phật, Ngài cùng Tôn giả Xá Lợi Phất điều hành và hướng dẫn Tăng chúng, cũng như độ cho nhiều người chứng đắc Thánh quả.

Đáng tiếc rằng, về sau Ngài bị giáo phái Ni Kiền Tử hãm hại bằng cách lăn đá và khiến Ngài viên tịch. Theo Đức Phật xác nhận, Ngài đã rời bỏ thân tứ đại để nhập Niết Bàn ngay tại nơi thọ nạn. Ngoài ra, Tôn giả Mục Kiền Liên còn được biết đến với danh tiếng Đại hiếu Mục Kiền Liên sau khi cứu được mẫu thân ra khỏi Địa ngục. 

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, tu khổ hạnh mẫu mực nhất

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp được Đức Phật ban cho danh hiệu Đầu đà đệ nhất. Đầu đà ở đây chính là cách gọi khác của pháp tu khổ hạnh nhằm thanh lọc những cặn bẩn trong tâm hồn. Truyền thuyết kể lại, Ngài Ma Ha Ca Diếp đắc quả A La Hán chỉ sau 8 ngày liên tục thực hành pháp tu khổ hạnh. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-4 

Chân dung Tôn giả Ma Ha Ca Diếp

Ma Ha Ca Diếp  được Đức Thế Tôn nhiếp hoa trước hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Ngài cũng là người yêu cầu mở đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên của Phật giáo.

Lối tu hành theo Đầu đà là một lối sinh hoạt cực kỳ đơn giản nhằm mục đích tịnh hóa tâm hồn, thích hợp với những Phật tử thích tu phạm hạnh như Ngài Ca Diếp. Ngài là tấm gương sáng cho cả Tăng và chúng ta về các hạnh: biết đủ, ít ham muốn, tinh tấn và viễn lý. 

Tôn giả A Nâu Đà La, mắt trời thấy suốt, thiên nhãn đệ nhất

Tôn giả A Nâu Đà La còn được gọi là A Na Luật. Ngài rất được kính trọng và nổi tiếng trong Tăng đoàn bởi những phẩm hạnh cao quý của mình, sự thanh tịnh tu hành, không bị cám dỗ bởi nữ sắc. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-5 

Chân dung Tôn giả A Nâu Đà La

Trước khi đắc đạo, ngài A Na Luật có một tật xấu là ham ngủ. Ngài thường xuyên ngủ gục mỗi khi nghe Đức Phật thuyết pháp. Chính vì vậy mà Ngài từng bị quở trách đôi ba phen. Kể từ đó, Ngài lập hạnh “không ngủ” từ sáng cho đến tận đêm khuya. Ngài chỉ ngồi đó, mở to đôi mắt và nhìn vào khoảng không, không chớp mặt. Đến một hôm, mắt Ngài bị sưng vù lên rồi trở nên mù lòa.

Chính Đức Phật đã cầm tay chỉ dạy để tôn giả A Nâu Đà La có thể may áo, tu định để khiến đôi mắt sáng ra. Ngài thực hành một cách triệt để nên mắt trở nên sáng tỏ, chứng được Thiên nhãn thông, không kể xa gần, trong ngoài, mắt của Ngài đều có thể nhìn được tất thảy. Đức Phật đã dùng chánh pháp phương tiện dạy cho A Nâu Đà La, để Ngài có thể nhập tánh thây viên dung, không còn sự lệ thuộc vào nhãn căn. Cứ như vậy, Ngài A Nâu Đà La đắc thánh quả A La Hán, được Phật ấn chứng là Thiên nhãn đệ nhất.

Tôn giả Tu Bồ Đề, thể nhập diệu lý “không” đệ nhất

Tu Bồ Đề dịch nghĩa ra chính là Thiện Cát, Không Sinh, Thiện Nghiệp. Ngài sinh ra ở thành Xá Vệ, là em trai của Trưởng lão Cấp Cô Độc, là con trai của Trưởng giả Tu Ma Na. Theo như điển tích Phật giáo kể lại, lúc Ngài Tu Bồ Đề sinh ra, trong gia đình bỗng dưng toàn xuất hiện những điều kỳ lạ liên quan đến dấu hiệu “không”. Tất cả đồ vật trong nhà, từ nơi để đồ cho đến nền nhà đều biến mất một cách kỳ lạ. Sót lại sau cùng chỉ là một mùi hương thơm ngát cùng ánh sáng rực rỡ chiếu sáng khắp nơi, làm lay động cả ba thế giới.

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-6 

Chân dung Tôn Giả Tu Bồ Đề

Thấy sự lạ nên người nhà bèn tìm thầy tướng để hỏi nguyên nhân. Hỏi về ý nghĩa điềm lạ này, thầy tưởng bảo đó là điều cực lành. Nhân điềm lành “không” ấy, cha mẹ Ngài Tu Bồ Đề mới đặt cho Ngài cái tên Tu Bồ Đề. Cái tên này có ba nghĩa lần lượt là Không Sanh, Thiện Cát (tốt lành), Thiện Hiện (hiện điềm tốt).

Ngài Tu Bồ Đề xuất gia tu đạo, khởi phát tâm từ bi, nhập vô tranh tam muội. Ngài thường hành thiện nghiệp nên được gọi là Thiện Nghiệp. Sau này, tôn giả Tu Bồ Đề lập chí quy y cửa Phật, đặc biệt thích nhập không định. Ngài trở thành 1 trong 10 Đại đệ tử của Đức Phật, nổi tiếng là Giải không đệ nhất. Thường xuyên được nhắc đến và xuất hiện trong các cuốn sách, kinh thư thuộc hệ Bát nhã ba la mật đa. 

Tôn giả Phú Lâu Na, giảng sư thuyết pháp tài giỏi nhất

Phú Lâu Na có tên đầy đủ là “Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử”, tên gọi Phú Lâu Na vốn chỉ là tên gọi viết tắt. Khi dịch nghĩa ra thì tên của Ngài có nghĩa là Mãn Ý Tử hoặc Mãn Nguyện Tử. Ông sinh ra là con trai của Trưởng giả thành Ca Tỳ La, cháu của A Nhược Kiều Trần Như và phụ thân là Quốc sư của vua Tịnh Phạn.

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-7 

Chân dung tôn giả Phú Lâu Na

Thuở thiếu thời,  Phú Lâu Na bị anh trai coi thường, bị đem bán cho thương gia ti tiện nhất. Ngày ngày ngoài lúc nỗ lực làm việc, Phú Lâu Na luôn thành tâm thờ Phật Đà, không chút tiếc mà đem hết tài sản xây dựng Tịnh xá, phát nguyện quy y Phật môn. 

Phú Lâu Na cực kỳ hiếu học, đặc biệt giỏi biện luận và thuyết pháp. Ngài thường được Đức Phật khen ngợi biệt tài ngôn luận trước đại chúng. Phật nói: “Các ông cũng nên xưng tán Phú-lâu-na. Ta thường khen ông ấy là bậc nhất trong hạng người thuyết pháp. Ông ấy thâm nhập biển Phật pháp hay làm lợi ích cho tất cả người đồng tu học đạo, trừ đức Phật ra, không ai có thể biện bác ngôn luận với ông ấy”. Đó cũng là lý do mà Phú Lâu Na có danh hiệu Thuyết pháp đệ nhất. 

Tôn giả Ca Chiên Diên, luận sư lỗi lạc nhất

Tôn giả Ca Chiên Diên vốn có tên là Na La Đà, sinh ra là con trai của Trưởng giả thực ấp A Bàn Đề Di Hầu. Phụ thân ông là luận sư Vệ Đà học. Kế thừa huyết thống phụ thân, Ca Chiên Diên trở thành một vị Trưởng giả hiền minh lúc bấy giờ. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-8 

Chân dung Tôn giả Ca Chiên Diên

Tôn giả Ca Chiên Diên là vị tôn giả có khả năng sử dụng ngôn ngữ thuộc hàng kiệt xuất trong Tăng đoàn của Đức Phật. Ngài có biệt tài dùng lời nói đơn giản giúp người vấn nạn phải thần phục. Trong hành trình của cuộc đời, nhờ vào tài nghị luận xảo diệu mà Ca Chiên Diên đã cảm hóa được rất nhiều người, giúp họ tỉnh ngộ để trở về với Tam Bảo, sống đời an yên. Nhờ khả năng thuyết phục khó ai bì kịp, Đức Phật đã khen ngợi tôn giả Ca Chiên Diên bằng danh hiệu Biện luận đệ nhất. 

Tôn giả Ưu Ba Li, mô phạm, uy tín và trì giới nhất

Tôn giả Ưu Ba Ly hay Ưu Bà Ly, dịch ra sẽ mang nghĩa Cận Thủ hoặc Cận Chấp. Ngài vốn thuộc giai cấp nô lệ Thủ Đà La, hành nghệ cắt tóc, hầu hạ trong vương cung. Trong số 10 vị đệ tử của Đức Phật, Ngài là người có xuất thân thấp kém nhất. Bản tính Ưu Bà Ly cực kỳ trung thực, lại nhiệt tâm, nỗ lực làm việc, được các quan và hoàng gia cung đình rất tín nhiệm.

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-9 

Chân dung Tôn giả Ưu Ba Ly

Khi Đức Phật quay trở lại thành Ca Tỳ La Vệ để hóa độ cho con trai của mình, bấy giờ là hoàng tử La Hầu La, Ngài đã cho phép người nô lệ Ưu Ba Ly gia nhập Tăng đoàn của mình. Sau này, ông cùng các công tử của dòng họ Thích Ca phát tâm quy y  Đức Phật. Ưu Bà Ly được Đức Phật truyền pháp đầu tiên. Sau một thời gian nghiêm cẩn tu hành, Ưu Ba Ly  trở thành nô lệ đầu tiên đắc thánh quả A La Hán. 

Sau khi đắc quả, Ưu Bà Ly được Đức Phật giao nhiệm vụ xử lý và hướng dẫn Tăng chúng các giới luật, giải quyết rất nhiều vấn đề nan giải cho Tăng đoàn nên được Đức Phật ca ngợi là Trì giới đệ nhất.

Tôn giả A Nan, nghe nhiều, nhớ kỹ và đa văn nhất

Tôn giả A Nan hay A Nan Đà, Ngài vốn là người em họ thân thiết của Đức Phật. Cũng giống như Ưu Ba Ly, Ngài được Phật cảm hóa và xuất gia khi Đức Phật trở về thăm hoàng cung, thành Ca Tỳ La Vệ. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-10 

Chân dung Tôn giả A Nan Đà

Ngài là vị tỳ kheo đệ nhất ở 5 phương diện: Đa văn, cảnh giác, sức khỏe đi bộ, lòng kiên trì và hầu hạ chu đáo. A Nan Đà tôn giả rất được lòng mọi người, được đề cử làm Thị giả cho Đức Phật. Ngài đồng ý làm Thị giả với điều kiện Đức Phật không được ưu ái Ngài quá mức. Bên cạnh đó, Đức Phật cũng phải chấp thuận 8 điều kiện mà Ngài đề ra. Trong đó là 4 điều từ chối và 4 điều chấp thuận.

  • 4 điều từ chối gồm: không cho phép Tôn giả sử dụng y, đồ ăn, có nơi riêng và mời Ngài đi ăn.
  • 4 điều chấp thuận: cho phép Tôn giả tham gia các buổi thọ trai nếu được mời. Nếu có người từ xa đến để xin ý kiến, Đức Phật cho phép A Nan giới thiệu Ngài. Đức Phật cho phép Tôn giả gặp mặt khi Ngài đối mặt với những vấn đề khó khăn. Đức Phật cũng đã truyền lại những giáo lý cho Tôn giả trong những lúc A Nan vắng mặt.

Dù có trí tuệ uyên bác, có thể ghi nhớ tất cả những bài giảng của Đức Phật nhưng A Nan Đà lại là người đắc thánh A La Hán sau những đại đệ tử khác. Sau khi Đức Phật nhập cõi Niết bàn thì phải tận 7 ngày sau A Nan Đà mới ngộ ra chân lý để đắc thánh quả.

Tôn giả La Hầu La, oai nghi, tế hạnh nhất

Tôn giả La Hầu La là vị tôn giả có xuất thân đặc biệt nhất trong 10 vị đệ tử của Đức Phật. Bởi lẽ La Hầu La chính là người con trai duy nhất của Thái tử Tất Đạt Đa (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) cùng công chúa Da Du Đà La. Tương truyền rằng, khi mang thai ông, công chúa Da Du Đà La đã mang thai tận 6 năm, nên ông được đặt tên là La Hầu. Dịch nghĩa ra là Phúc Chướng, Liêu Tỏa. Cũng có truyền thuyết kể rằng, ngày La Hầu La ra đời, đúng lúc có nhật thực, chính vì vậy mới có cái tên này. 

10-vi-de-tu-cua-duc-phat-11 

Chân dung Tôn giả La Hầu La

Khi trở về thăm quê lần đầu tiên sau khi đắc chứng quả, Đức Phật đã tìm cách đưa La Hầu La đi xuất gia. Ngài lệnh cho Xá Lợi Phất và Mục Liên thúc giục La Hầu La. Sau đó, ông đã bái Xá Lợi Phất làm thầy và gia nhập Tăng đoàn. Lúc bấy giờ, La Hầu La chỉ mới là một cậu bé, tu tập có phần chểnh mảng.

Sau đó, được Đức Phật cùng Xá Lợi Phất giáo hóa, dòng máu vương giả trong người La Hầu La dần dần phai nhạt, tính tình trở nên ôn hòa và nhu thuận hơn cả. La Hầu La giữ nghiêm giới luật, dốc sức thực hành Đạo, quyết luyện mật hành. Đức Phật đã chỉ dạy La Hầu La rằng “Hãy nhìn vào vạn tượng sum la kia, rồi nhìn lui vào tâm niệm và thân thể của mình, để xem có gì đứng yên một chỗ không ? Vô thường ! Vô thường tất cả ! Nên biết như thế và đừng để cho tâm chấp trước dính mắc vào đâu cả”. Chiêm nghiệm và kiên trì một thời gian, Ngài đã chứng được tận cùng của Mật hạnh, được Đức Phật khen ngợi là Mật hạnh đệ nhất.

Trên đây là những thông tin về mười vị đệ tử của Đức Phật. Và thật sự các vị tôn giả này chính là những tấm gương sáng về hạnh nguyện, đức tính và năng lực đặc biệt mà quý Phật tử có thể noi theo và học hỏi. 

Tham khảo thêm các bài viết khác:

Bài viết liên quan

Top 100+ hình Phật đẹp nhất chất lượng cao Buddhist Art thiết kế

Top 100+ hình Phật đẹp nhất chất lượng cao Buddhist Art thiết kế

Dưới đây là top 100 hình Phật, ảnh Phật đẹp nhất với chất lượng cao có thể tải về làm hình nền, hình đại diện, hình video... mà Buddhist Art đã thiết kế khá tỷ mỷ muốn chia sẻ cho cộng đồng.

Dự án điêu khắc bộ phù điêu cuộc đời Đức Phật trên chất liệu gỗ

Dự án điêu khắc bộ phù điêu cuộc đời Đức Phật trên chất liệu gỗ

Công Ty TNHH Buddhist Art đã hoàn thành dự án điêu khắc bộ phù điêu cuộc đời Đức Phật trên đất sét. Và sẽ hoàn thành trên chất liệu composite, sau đó có thể chuyển sang các chất liệu phổ biến khác như đồng, đá, xi măng, gỗ....

Top 10 hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni đẹp nhất

Top 10 hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni đẹp nhất

Xin chào và rất cảm ơn bạn đã ghé thăm trang web của công ty TNHH Buddhist Art và cùng chiêm ngưỡng những hình ảnh đẹp về tượng Phật Thích Ca. Buddhist Art với kho hình nền Đức Phật Thích Ca đa dạng và được thực hiện tỉ mỉ, rất mong được sự đón nhận của quý Phật Tử, Sư Thầy, Sư Cô.

Đức Phật Thích Ca và Phật A Di Đà giống hay khác nhau?

Đức Phật Thích Ca và Phật A Di Đà giống hay khác nhau?

Phật Thích Ca và Phật A Di Đà giống hay khác nhau, có phải là cùng 1 vị Phật không? Làm sao để phân biệt được tượng Phật Thích Ca và tượng Phật A Di Đà để khỏi nhầm lẫn, phật a di đà có thật không? Hãy cùng BUDDHIST ART tìm hiểu nhé!

Tìm hiểu Đức Phật A Di Đà (Adida) là ai và sự tích về Ngài

Tìm hiểu Đức Phật A Di Đà (Adida) là ai và sự tích về Ngài

Đức Phật A Di Đà (Adida) hay còn được gọi là Amida là vị Phật xuất hiện trong Phật Giáo và được tôn kính, thờ Phụng phổ biến. Hãy cùng Buddhist Art tìm hiểu qua bài viết này nhé!

Cuộc đời Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Cuộc đời Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

Đức Phật thích ca mâu ni là ai và tiểu sử cuộc đời của ngài như thế nào? tất cả điều này sẽ được chúng tôi làm rõ ngay trong bài viết này cho các bạn nhé